Retinol có thể sử dụng được trên những vùng da nào?
Team Obagi Support
Th 7 13/11/2021
16 phút đọc
Nội dung bài viết
Retinoids vốn được biết đến rộng rãi với vô vàn lợi ích trên da mặt. Vậy chúng ta có thể ứng dụng Retinoids cho các vùng da khác không? Trên lý thuyết là có thể, tuy nhiên, không phải vùng da nào trên cơ thể cũng giống nhau, qua bài viết này, hãy cùng Obagi khám phá về ứng dụng của Retinoids trên các vùng da khác trên cơ thể ngoài gương mặt nhé!
1. Lợi ích tiêu biểu của Retinol khi thoa ngoài da
1.1. Chống lão hoá
Retinoids là dẫn xuất của Vitamin A có rất nhiều nghiên cứu khoa học hỗ trợ tính ưu việt của chúng trong số tất cả các sản phẩm chống lão hóa hiện có. Sự kết hợp giữa kem chống nắng vào buổi sáng và retinoids vào ban đêm là một chế độ chăm sóc da cơ bản, đơn giản giúp giảm thiểu nếp nhăn và đốm nâu.
Về cơ bản, Retinoids giúp đẩy nhanh quá trình bong tróc các tế bào da bị tổn thương do ảnh hưởng môi trường, tuổi tác và ánh nắng mặt trời, để lộ làn da khỏe mạnh bên dưới của bạn. Retinoids giảm thiểu sự xuất hiện của nếp nhăn , thúc đẩy làn da của độ dày và độ đàn hồi, làm chậm sự phân hủy của collagen (giúp da săn chắc giữ). Chúng cũng kích thích sản sinh các mạch máu mới trên da, giúp cải thiện màu da, duy trì độ đàn hồi và độ nảy của da, làm mờ dần các đốm đồi mồi do tiếp xúc với ánh mặt trời.
Retinoids giảm thiểu sự xuất hiện của nếp nhăn , thúc đẩy làn da của độ dày và độ đàn hồi, làm chậm sự phân hủy của collagen (giúp da săn chắc giữ), và đốm nâu Lighten do tiếp xúc với ánh mặt trời.
Cơ chế hoạt động của Retinoic Acid trên da. Nguồn: Fin vs Fin
1.2. Trị mụn
Mụn được xem như một bệnh lý mãn tính - không thể chấm dứt vĩnh viễn mà đòi hỏi phải điều trị lâu dài vì chúng có thể tái phát bất kỳ lúc nào. Vào những năm cuối thế kỷ 20, các bác sĩ da liễu đã phát hiện ra được 4 yếu tố chính gây nên mụn, bao gồm cả mụn không viêm và mụn viêm, mụn trứng cá. Nhìn chung, mụn được bắt đầu từ 4 yếu tố chính:
Sự tăng tiết bã nhờn quá mức
Quá trình sừng hóa (còn gọi là dày sừng)
Quá trình viêm (như trạng thái sưng đỏ, nhức, có mủ trắng,... ở vùng bị mụn)
Vi khuẩn gây mụn P.Acnes
Retinoids là một trong những hoạt chất nổi tiếng được biết đến với vai trò giải quyết các vấn đề liên quan đến mụn. Với nhóm Retinoid, chúng tác động đến 2 trong 4 yếu tố trên, bao gồm:
Bình thường hóa quá trình sừng hóa bằng cách giảm sự tăng sinh tế bào sừng và thúc đẩy sự biệt hóa. [1]
Ngăn chặn một số con đường viêm quan trọng được kích hoạt trong mụn trứng cá. Việc ngăn chặn các con đường gây viêm này giúp làm giảm giải phóng các cytokine – tác nhân gây viêm và Nitric Oxide, ức chế quá trình viêm của tế bào. [1]
Retinoids thoa tại chỗ giúp ngăn chặn sự hình thành và giảm các microcomedones - chậm quá trình phát triển của các tổn thương mới và sự kháng thuốc của vi khuẩn, thúc đẩy sự bong tróc của biểu mô nang lông, chống viêm và tăng cường hấp thu các hoạt chất trị mụn tại chỗ khác. Do đó, retinoids là phương pháp điều trị hiệu quả nhất cho hầu hết các dạng mụn trứng cá.
2. Sử dụng Retinoids trên các vùng da khác như thế nào?
2.1. Sự khác nhau giữa da mặt và da cơ thể
Da bao gồm ba lớp và có sự khác biệt lớn giữa 3 lớp này ở vùng mặt và cơ thể: Lớp bì ( trên), trung bì (giữa), hạ bì(dưới).
Da trên mặt: Lỗ chân lông trên da mặt nhỏ hơn so với phần còn lại của cơ thể và chứa nhiều tuyến dầu hơn, lý tưởng cho sự phát triển của mụn trứng cá, và đây là lý do tại sao chúng ta thấy mụn trứng cá ảnh hưởng đến da mặt thường xuyên. Da mặt cũng mỏng và mỏng manh hơn da trên cơ thể, do đó cần có phác đồ điều trị nhẹ nhàng hơn [2].
Da trên cơ thể: Lỗ chân lông trên da và các tuyến dầu trên da trên cơ thể lớn hơn trên da mặt. Đây là lý do tại sao khi các vết mụn xuất hiện trên cơ thể , các vết thương có xu hướng lớn hơn về kích thước. Da trên cơ thể dày và cứng hơn da mặt, do đó có thể áp dụng một phác đồ điều trị mạnh và kết hợp hơn [2].
Da mặt cũng tiếp xúc với gió và điều kiện thời tiết khắc nghiệt và dễ bị khô hơn so với các bộ phận khác trên cơ thể thường được che phủ [3]. Điều này có nghĩa là dưỡng ẩm có thể đặc biệt quan trọng đối với da mặt vào những tháng lạnh hơn trong năm.
a) Vùng da lưng, tay chân:
- Mụn trứng cá ở lưng - đôi khi được gọi là “mụn thịt” - có thể đặc biệt phiền phức. Trên thực tế, mụn trứng cá ở lưng ảnh hưởng tiêu cực đến hơn một nửa số người bị mụn trứng cá trên cơ thể [4].
Mụn trên cơ thể thường xuất hiện ở lưng, ngực, sau cổ, vai và cánh tay trên, nhưng có thể phát triển ở bất cứ đâu trên cơ thể ngoại trừ lòng bàn tay và lòng bàn chân, đây là hai khu vực duy nhất không bị mụn.
Mụn trứng cá trên cơ thể phát triển theo cách tương tự như mụn trứng cá trên khuôn mặt, khi lỗ chân lông bị tắc và dầu da thường thoát ra bề mặt bị giữ lại, tạo điều kiện cho vi khuẩn mụn phát triển quá mức.
Mụn trên ngực và lưng có xu hướng khác một chút so với mụn trên mặt. Về mặt lý thuyết [4], chúng được gọi là viêm nang lông , tức là khi nang lông bị nhiễm trùng. Tuy nhiên, nó trông giống như mụn trên mặt và có thể điều trị được với các sản phẩm và thành phần giống nhau.
Lưng có rất nhiều tuyến bã nhờn tiết ra bã nhờn: Mụn trứng cá ở lưng là kết quả của sự tích tụ các tế bào da chết và dầu (bã nhờn) trong lỗ chân lông trên da, kết hợp với sự phát triển quá mức của loại vi khuẩn da phổ biến, Cutibacterium acnes, gây ra phản ứng viêm [5].
Về cấu trúc, các vùng da này trên cơ thể có dày hơn và hoàn toàn cần áp dụng những hoạt chất đặc trị mạnh. Đặc biệt da vùng lưng và ngực, cần kết hợp tẩy tế bào chết thường xuyên để tránh gây bít tắc lỗ chân lông.
Các bác sĩ da liễu khuyên nên thoa adapalene sau khi tắm hoặc trước khi đi ngủ và có thể áp dụng hằng ngày. Retinoid (gel adapalene 0,1%) kết hợp cùng với benzoyl peroxide có thể cải thiện da vùng lưng/ ngực/ tay/ chân giúp làm thông thoáng lỗ chân lông, tăng cường tác động của benzoyl peroxide trên da [6]. Ngoài ra, vì ngực và lưng tiết ra một lượng lớn dầu, nên axit salicylic là một lựa chọn khả thi khác vì nó giúp nhũ hóa bã nhờn, khử tắc lỗ chân lông và ức chế vi khuẩn [7].
Đối với vùng da tay/ chân thường bị tác động lớn từ môi trường và sản sinh nhiều tế bào chết, chúng ta hoàn toàn có thể sử dụng các sản phẩm body chứa retinoids để loại bỏ lớp sừng trên da. Đặc biệt hiệu quả với các bạn bi viêm nang lông, lông mọc ngược, dày sừng và bong tróc tay chân vào mùa lạnh. Tuy nhiên vùng da này cũng tương tự da mặt, ít tuyến dầu hơn và tiếp xúc trực tiếp môi trường nên cần dưỡng ẩm và chống tia UV.
b) Vùng da cổ và ngực:
Ngành công nghiệp làm đẹp dần chú trọng đến vùng da ngực là cổ và ngực - một khu vực thẩm mỹ quan trọng thường bị bỏ qua. Tương tự như phần da mặt, phần này của cơ thể dễ bị phơi nắng và lão hóa sớm. Đây cũng là một khu vực phổ biến cho các bệnh ung thư da phát triển, có thể dẫn đến sự phân hủy collagen, các vết sạm màu nâu, da sần sùi và các mạch máu lộ rõ [8].
Giống như vùng da dưới mắt, cổ của bạn có các sản phẩm làm đẹp riêng. Vùng da cổ mỏng và không có số lượng tuyến bã nhờn hoặc tuyến dầu nhiều như da mặt, dễ tiếp xúc với môi trường và trọng lực dẫn tới nó có thể bị lão hóa nhanh nhất.
Tương tự vùng da cổ, da ngực cũng mỏng và chứa ít tuyến dầu.
Các thực nghiệm cho thấy rằng [8], chúng ta hoàn toàn có thể sử dụng các sản phẩm da mặt cho vùng da cổ và ngực. Tuy nhiên, cổ cần nhiều độ ẩm hơn và chống nắng liên tục, vì có ít tuyến dầu hơn để bảo vệ da.
Chú trọng các thành phần chăm sóc mục đích làm căng da và cấp nước
Giống như mặt, cổ cần được chăm sóc bởi các chất chống oxy hóa để có thể giúp chống lại các gốc tự do. The các chuyên gia, các peptide làm săn chắc và các yếu tố tăng trưởng kích thích collagen và elastin rất lý tưởng.
Để giúp chống lão hóa, Theo Tiến sĩ Nikhil Dhingra của Viện Da liễu Spring Street [9] khuyên nên sử dụng retinoids tại chỗ cho khu vực này, có thể giúp giảm nếp nhăn bằng cách tăng sản xuất collagen.
Việc sử dụng Retinoids cho vùng da này là hoàn toàn có thể, giúp chống lão hóa, tăng sinh collagen. Tuy nhiên, cần lưu ý dưỡng ẩm nhiều hơn (sử dụng kèm các sản phẩm chứa Hyaluronic Acid) và chống nắng kỹ hơn cho 2 vùng da này nếu không có thể gây tác dụng không mong muốn như: nóng rát, kích ứng, bong tróc hay thậm chí viêm da cơ địa.
c) Vùng da nách:
Da dưới cánh tay sẫm màu là một dạng tăng sắc tố, nơi da sản xuất nhiều hắc tố hơn. Sự tập trung của sắc tố melanin ở một số vùng da nhất định gây ra sắc tố. Sắc tố có thể xuất hiện do sự mất cân bằng nội tiết tố, tiếp xúc với ánh nắng mặt trời trong nhiều giờ, cạo râu thường xuyên, chất khử mùi, vi khuẩn hoặc ma sát do quần áo.
Và không ít các bác sĩ da liễu chọn các kem bôi ngoài da để làm sáng vùng da dưới cánh tay. Chưa có những nghiên cứu cụ thể về nồng độ, trên thực nghiệm: Kem có chứa Retin-A giúp làm sáng da bằng cách tẩy tế bào chết và thúc đẩy sự phát triển của các tế bào da mới. Các loại kem retinoid được kê đơn dựa trên mức độ của sắc tố cùng với các loại kem bôi ngoài da khác.
Theo bác sĩ da liễu, các vùng da như cổ và nách thường nhạy cảm hơn mặt. Trước khi bôi lên toàn bộ vùng da này, nên thử miếng dán để xem phản ứng của da với thành phần này như thế nào [11].
3. Cách sử dụng Retinol cho da cơ thể an toàn:
Liệu pháp tiếp xúc ngắn (Short Contact Therapy)
Tác dụng phụ thường gặp nhất của việc sử dụng Retinoid tại chỗ đó là viêm da tiếp xúc (còn gọi là kích ứng). Nó xảy ra ở khoảng 85% bệnh nhân và con số này có thể lên đến 95% ở những bệnh nhân được điều trị bằng Tretinoin. Mức độ nghiêm trọng của bệnh viêm da này từ trung bình đến nặng ở khoảng 20% bệnh nhân. Ngoài ra còn có tới 15% bệnh nhân ngừng điều trị bằng Tretinoin vì kích ứng da. [12]
Để khắc phục được điều này thì bài nghiên cứu [12] đã áp dụng phương pháp tiếp xúc ngắn (Short Contact Therapy) cho những bệnh nhân bị mụn trứng cá ở mức độ nhẹ tới trung bình sử dụng Tretinoin. Mô hình nghiên cứu bao gồm 74 bệnh nhân được điều trị bằng kem Tretinoin 0.05%. Nó được áp dụng một lần trong ngày với thời gian là 30 phút, và được duy trì từ 8 đến 32 tuần (thời gian trung bình: 12 tuần). Kết quả cho thấy rằng 41 bệnh nhân có dấu hiệu cải thiện đáng kể mà không bị kích ứng với Tretinoin, 13 bệnh nhân có biểu hiện kích ứng nhẹ, và 4 bệnh nhân phải ngừng điều trị vì kích ứng nặng.
Qua nghiên cứu trên, chúng ta có thể thấy được hiệu quả của Tretinoin được sử dụng bằng phương pháp tiếp xúc ngắn có tính vượt trội hơn so với việc sử dụng Tretinoin theo cách truyền thống (tức là bôi qua đêm). Khả năng chịu đựng của những bệnh nhân này trong liệu pháp tiếp xúc ngắn với tretinoin đáp ứng rất tốt.
Vậy tóm lại phương pháp tiếp xúc ngắn này có tác dụng là lưu lại hoạt chất trên da trong khoảng thời gian 30 phút và duy trì trong 2 - 4 tuần (tùy theo nhu cầu đáp ứng của làn da), sau đó rửa lại với nước ấm để có thể giảm bớt lượng hoạt chất lưu lại trên nền da, từ đó giúp cho da có thể làm quen được với hoạt chất, và đảm bảo được hiệu quả mà nó mang lại, đồng thời cũng giảm được tình trạng kích ứng mà nó gây ra, nhất là đối với Tretinoin. Tuy nhiên đây chỉ là một phương pháp tạm thời giúp da có thể đáp ứng tốt với Tretinoin, và hạn chế kích ứng nhất có thể, sau khi da đã làm quen với hoạt chất thì chúng ta nên ngưng sử dụng phương pháp tiếp xúc ngắn và quay trở lại sử dụng dạng leave-on (để qua đêm).
Da cơ thể như đã phân tích ở trên, có cấu trúc dày và ít nhạy cảm hơn so với da mặt, vậy nên việc dùng Retinoids cho vùng da này hoàn toàn được các chuyên gia da liễu khuyến khích, giúp bạt sừng, điều tiết dầu và cải thiện bề mặt da.
Các vùng da như lưng, chân, tay hoàn toàn có thể sử dụng Retinoids mà ít khả năng gây kích ứng hoặc nhạy cảm. Tuy nhiên, các vùng da như Cổ, ngực và vùng da nách dưới cánh tay thì cần chú ý hơn trong việc thoa thành phần này. Nếu có hiện tượng bong tróc, nổi mẩn đỏ, viêm da tiết bã,… cần ngưng/ giãn tần suất sử dụng.
Đối với những vùng da cơ thể, bên cạnh việc thoa Retinoids cần kết hợp các sản phẩm dưỡng ẩm để tránh mất nước và gây khô da. Ngoài ra những vùng tiếp xúc trực tiếp với môi trường như Cổ, tay, chân nên được chăm sóc bằng những sản phẩm cấp ẩm, chống oxy hoá và chống nắng đầy đủ để ngăn ngừa lão hoá.
Như vậy, Retinoids có thể áp dụng được khi sử dụng trên da cơ thể. Tuy nhiên, vì sự khác nhau giữa những vùng da trên cơ thể, bạn nên chú ý trong việc sử dụng một cách hợp lý, đồng thời kết hợp dưỡng ẩm để da cơ thể vẫn giữ độ ẩm cẩn thiết.
SẢN PHẨM GỢI Ý
Kem dưỡng chống lão hoá, trị mụn Obagi Tretinoin với 4 nồng độ khác nhau
Nguồn tham khảo
Czernielewski, J., Michel, S., Bouclier, M., Baker, M., & Hensby, C. (2001). Adapalene biochemistry and the evolution of a new topical retinoid for treatment of acne. Journal of the European Academy of Dermatology and Venereology, 15, 5-12.
Machado, M., Hadgraft, J. & Lane, M. E. Assessment of the variation of skin barrier function with anatomic site, age, gender and ethnicity. Int. J. Cosmet. Sci. 32, 397‐409 (2010).
https://www.mayoclinic.org/diseases-conditions/acne/symptoms-causes/syc-20368047
Brand B, Gilbert R, et al. “Cumulative irritancy comparison of adapalene gel 0.1% versus other retinoid products when applied in combination with topical antimicrobial agents.” J Am Acad Dermatol. 2003;49(3 Suppl):S227-32.
https://www.dermascope.com/scope-this/10-things-about-body-acne
https://www.allure.com/story/fungal-acne-pityrosporum-folliculitis-guide
https://www.everydayhealth.com/acne/back-acne-treatment.aspx